CNQP&KT – Trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895)chống thực dân Pháp xâm lược do Phan Đình Phùng lãnh đạo diễn ra ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nghĩa quân đã chú trọng xây dựng các cơ sở sản xuất vũ khí tại chỗ…
Trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895)chống thực dân Pháp xâm lược do Phan Đình Phùng lãnh đạo diễn ra ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nghĩa quân đã chú trọng xây dựng các cơ sở sản xuất vũ khí tại chỗ, nhất là đã tranh thủ kỹ thuật quân sự của phương Tây kết hợp với truyền thống tự tạo vũ khí của dân tộc, nghiên cứu sản xuất thành công súng trường kiểu 1874.
Bạn đang xem: Độc đáo súng trường 1874
Súng trường 1874 là kiểu súng trường đầu tiên dùng vỏ đạn kim loại với nhiều phiên bản cho bộ binh, kỵ binh, hiến binh, pháo binh và là vũ khí mạnh, cận chiến tốt. Súng do Basile Gras thiết kế năm 1873, dựa trên cơ sở cải tiến súng trường Chassepot kiểu 1866; có khối lượng 4,19kg, dài 1.305mm (chiều dài nòng 820mm), dùng đạn cỡ 11x59mm, sơ tốc đầu nòng 450m/s, tầm bắn 1.800m; không có hộp tiếp đạn nên chỉ bắn được một phát bắn sau khi nạp đạn rời từng viên từ đuôi nòng, nên còn gọi là “súng khai hậu”. Súng được Quân đội Pháp sử dụng khi xâm lược Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX. Binh lính thuộc địa người Việt cũng được trang bị loại súng này.
Xem thêm : Điện thoại được phát minh vào năm nào? Lịch sử ra đời của điện thoại di động
Nói đến súng trường kiểu 1874 do nghĩa quân Hương Khê sản xuất trước hết phải nói đến Cao Thắng. Ông sinh năm 1864, mất năm 1893, quê ở Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân từ một nông dân nghèo, năm 1874 ông gia nhập nghĩa quân Trần Quang Cán. Năm 1885, ông cùng em là Cao Nữu và bạn là Nguyễn Đình Kiểu mộ quân khởi nghĩa tại quê.Năm 1886, ông đưa lực lượng gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng và được giữ chức Quản cơ (phụ trách việc tổ chức, xây dựng lực lượng). Ông là một người yêu nước, căm thù giặc Pháp, có trí thông minh, tinh thần sáng tạo trong việc tìm kiếm và chế tạo vũ khí. Trong suốt thời gian giữ trọng trách chỉ huy, ông luôn trăn trở là làm thế nào sản xuất được súng đạn để chiến đấu dài ngày. Để làm được việc đó, nghĩa quân đã tổ chức phục kích giặc Pháp ở đồn Hố Sâu, thu được 17 súng trường loại mới, có cỡ nòng 11mm và 2 hòm đạn (khoảng 600 viên) đưa về nghiên cứu.
Cao Thắng đã chiêu tập nhiều thợ rèn giỏi ở các làng Trung Lương (Đức Hồng), Văn Chàng (Đức Thuận), Đông Thái (Đức Phong) đều thuộc huyện Đức Thọ, lên vùng Khe Rèn (Thượng Bồng), Lễ Động, Mò O (Hạ Bồng) lập xưởng rèn vũ khí. Thời gian đầu, nghĩa quân tập trung tháo lắp và mày mò nghiên cứu chi tiết từng bộ phận súng địch. Đến lúc tự thấy có thể rèn được mọi bộ phận (trừ rãnh xoắn trong nòng súng), Cao Thắng táo bạo quyết định đúc súng nòng trơn. Vấn đề tiếp theo là lấy nguyên liệu ở đâu để sản xuất vũ khí hàng loạt? Để giải quyết khó khăn này, Cao Thắng đã tổ chức nghĩa quân tuyên truyền vận động quần chúng góp của, góp sức. Sau một thời gian ngắn, Cao Thắng có trong tay hơn 300 thợ rèn, 30 thợ mộc ở hai làng Thái Yên (Đức Bình, Đức Thọ) và Xa Lang (Sơn Tâm, Hương Sơn). Thợ đúc đồng, thợ bạc ở các huyện Can Lộc, Thạch Hà cũng được Cao Thắng đón lên làm đạn, làm trái phá, hỏa mù. Nhân dân Thượng – Hạ Bồng và các làng xung quanh đã cung cấp nhiều mâm thau, nồi đồng, sắt vụn, lưỡi cày, gọng ô, lưỡi cuốc… để sản xuất súng. Tuy sản xuất thủ công, nhưng được tổ chức theo dây chuyền và chuyên môn hóa, như tổ chức các bộ phận chế tạo nòng súng, kim hỏa, sản xuất thuốc súng, đạn… nên đã đem lại hiệu quả rất cao.
Mẫu súng trường kiểu 1874 do Nghĩa quân Hương Khê sản xuất trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh: TL
Xem thêm : Vì sao xe máy nhập không tắt đèn vào ban ngày?
Để tự lực sản xuất được súng trường kiểu 1874, nghĩa quân đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, gian khổ, thử thách, hy sinh. Khu vực sản xuất của nghĩa quân ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ nên đời sống người thợ rất khó khăn.Lương thực, thực phẩm phải đi vận động nhân dân địa phương giúp đỡ.Để chống muỗi đốt, các xưởng phải vừa làm vừa hun khói. Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu, chế tạo, thử nghiệm, sản xuất súng, nhiều người thợ đã phải trả giá bằng chính xương máu của mình, nhờ đó đã cung cấp ngày càng nhiều vũ khí cho nghĩa quân chiến đấu.
Chỉ sau một thời gian ngắn, nghĩa quân đã sản xuất được 2.000 khẩu súng trường kiểu 1874 không khác mấy so với súng của Pháp. Năm 1897, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa, quân Pháp thu được hơn 2,5 tấn vũ khí của nghĩa quân, có 328 nòng súng, 103 súng trường… Charles Gosselin – một sĩ quan Pháp tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa cho biết: “Tôi đã đem nhiều khẩu súng đó về tận nước Pháp; nó giống đủ mọi vẻ như súng do các công binh xưởng nước ta chế tạo, giống đến nỗi các quan pháo binh phải sửng sốt, chỉ có khác kiểu ta vì lò so yếu và nòng súng không có xẻ rãnh”.
Tuy số lượng không quá lớn, hiệu quả tiêu diệt địch chưa cao, nhưng trong điều kiện không có máy móc và nguyên vật liệu không đồng bộ, sự hiểu biết, tay nghề về sản xuất vũ khí còn non yếu thì việc nghĩa quân Hương Khê sản xuất thành công súng trường kiểu 1874 là hết sức độc đáo, sáng tạo, thực sự là đỉnh cao của kỹ thuật quân sự của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nó không chỉ có giá trị cho các cuộc kháng chiến tiếp theo, mà còn là di sản văn hóa quân sự của dân tộc Việt Nam.
NGÔ NHẬT DƯƠNG
Nguồn: https://ippm.edu.vn
Danh mục: Hỏi đáp bốn phương